Tác hại của HIV và AIDS là vô cùng lớn, đó chính là gây suy giảm hệ miễn dịch ở người và nặng nhất là gây tử vong cho người bệnh nếu không kịp thời chữa trị. Một khi chức năng miễn dịch không còn, cơ thể như mất đi khả năng bảo vệ khỏi các tác nhân có hại hay thường gọi là các bệnh/ nhiễm trùng cơ hội, kể cả những tác nhân thông thường như cảm cúm, sốt…
Tác hại của HIV và AIDS
Với một người bình thường và chưa nhiễm HIV thì các bệnh như cảm cúm, sốt hay tiêu chảy rất khó làm cho bệnh nhân tử vong do hệ miễn dịch của người đó khỏe, dẫn đến khả cơ thể tự chống lại các bệnh thông thường dễ dàng. Tuy nhiên, với một người bị nhiễm HIV và không được điều trị kịp thời, hệ miễn dịch yếu dẫn làm cho khả năng chống lại bệnh không còn nên nguy cơ bệnh nặng và tử vong sẽ cao hơn.
Trước khi đi vào tìm hiểu sâu hơn về các tác hại của HIV và AIDS, chúng ta cần tìm hiểu xem cơ chết của virut HIV và bệnh AIDS để biết mình nên làm gì khi xét nghiệm HIV âm tính và phải làm gì khi xét nghiệm HIV dương tính. Hiểu rõ về căn bệnh sẽ giúp chúng ta biết được hậu quả mà HIV và AIDS gây ra sẽ như thế nào và biết cách dự phòng lây nhiễm HIV hiệu quả hơn.

Chúng ta đều hiểu được bệnh HIV thực sự là căn bệnh nguy hiểm như thế nào. Thế nhưng tác hại của HIV và AIDS đến cơ thể chúng ta là như thế nào?
Trước hết, virut HIV được định nghĩa là siêu virut gây suy giảm hệ miễn dịch ở người. Sở dĩ như vậy là do virut HIV khi xâm nhập vào cơ thể (qua đường máu, quan hệ tình dục không an toàn, hay từ mẹ sang con) sẽ phá huỷ các tế bào CD4+. Đây là những tế bào có vai trò quan trọng đối với hệ miễn dịch của cơ thể. Các tế bào CD4+ này có nhiệm vụ bảo vệ và giữ cho cơ thể khỏe mạnh khỏi các bệnh và nhiễm trùng thông thường. Do đó, khi virut HIV xâm nhập và phá hủy các tế bào CD4+ này đồng nghĩa sẽ làm giảm và phá hủy chức năng miễn dịch ở người nhiễm virut HIV.
Sau khi xâm nhập vào cơ thể virut HIV sẽ nhân bản với tốc độ cao hay chậm tuỳ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của người bệnh và thời gian phát hiện nhiễm virut. Có nghĩa là càng phát hiện sớm thì khả năng đáp ứng điều trị càng cao và cơ hội cải thiện hệ miễn dịch càng lớn. Do đó, khi có hành vi nguy cơ lây nhiễm, người bệnh cần tiến hành xét nghiệm HIV ngay để biết tình trạng nhiễm HIV của mình và từ đó có thể tiếp cận các dịch vụ dự phòng và điều trị kịp thời.

Tác hại của HIV và AIDS khác nhau qua từng giai đoạn
AIDS là từ viết tắt của hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người. Đây là giai đoạn cuối của HIV. Ở giai đoạn này, hệ thống miễn dịch của người bệnh đã bị suy yếu nghiêm trọng, và nguy cơ nhiễm các bệnh/ nhiễm trùng cơ hội là rất lớn. Tuy nhiên, không phải ai bị nhiễm HIV cũng sẽ phát triển thành bệnh AIDS, đặc biệt đối với những ai phát hiện sớm và tuân thủ điều trị. Do vậy, để làm giảm tối đa tác hại của HIV và AIDS cũng như giảm quá trình phát triển thành bệnh AIDS, bệnh nhân cần điều trị sớm và tuân thủ nghiêm ngặt phác đồ điều trị của bác sỹ.

Làm sao để hạn chế các tác hại của HIV và AIDS hiệu quả?
Mặc dù HIV và AIDS chưa có thuốc có thể chữa khỏi căn bệnh thế kỷ này, nhưng nếu được phát hiện sớm và kịp thời điều trị, người nhiễm HIV/AIDS có thể sống khoẻ mạnh và lao động như những người bình thường. Quan trọng hơn, nếu người bệnh tuân thủ điều trị tốt, họ có thể đạt được tải lượng virut ở mức không phát hiện trong thời gian 6 tháng. Điều này có nghĩa rằng, khi điều trị ARV mà tải lượng virut ở mức không phát hiện sẽ không làm lây truyền HIV qua quan hệ tình dục:
- Không phát hiện = Không lây truyền (được viết tắt K=K ) có nghĩa là: Khi một người nhiễm HIV được điều trị ARV đạt được mức tải lượng virut HIV trong máu dưới 200 bản sao/ml máu (hay còn gọi là dưới ngưỡng phát hiện), sẽ ngăn ngừa được lây truyền HIV qua đường tình dục. Hay nói một cách dễ hiểu hơn, khi một bệnh nhân HIV có mức tải lượng virut HIV dưới ngưỡng phát hiện thì người đó không thể lây truyền HIV qua quan hệ tình dục cho bạn tình dù không sử dụng bao cao su.

Tóm lại, dù bạn có xét nghiệm HIV dương tính, cũng không nên quá lo lắng vì điều trị sớm sẽ giúp bạn sống khoẻ, sống lâu và an toàn như những người bình thường. Điều quan trọng là bạn cần vào xét nghiệm sớm và tuân thủ phác đồ điều trị của bác sĩ.